GIÁ TRỊ KHO MỘC BẢN CHÙA VĨNH NGHIÊM

|
Lượt xem:
Chế độ ban đêm OFF
Cỡ chữ: A- A A+
Đọc bài viết

Vĩnh Nghiêm từ lâu đã trở thành một Đại danh lam cổ tự nổi tiếng khắp cả nước. Chùa còn được gọi theo tên địa danh là chùa Đức La, thuộc xã Trí Yên, huyện Yên Dũng, tỉnh Bắc Giang. Đây là một trung tâm Phật giáo lớn của thời Trần. Một chốn tổ quan trọng - nơi ba vị Trúc Lâm Tam tổ ( Trần Nhân Tông - Pháp Loa - Huyền Quang) từng trụ trì và mở trường thuyết pháp. Ngôi chùa này còn là nơi đào tạo các tăng tài có lịch sử lâu đời nhất của Phật giáo Việt Nam và được truyền thừa qua nhiều thế hệ. Đặc biệt, đây là viện khắc in và lưu trữ thư tịch Việt Nam qua các triều đại phong kiến.

Trải qua nhiều thế kỷ đến nay, chùa Vĩnh Nghiêm vẫn là nơi tàng lưu một kho tàng di sản văn hoá quý giá của cộng đồng các dân tộc Việt Nam bao gồm: hệ thống tượng thờ gồm trên 100 pho, hệ thống văn bia (7 bia) cơ bản được soạn khắc ở giai đoạn thời Lê - Nguyễn ghi lại toàn bộ lịch sử phát triển của trung tâm Phật giáo Vĩnh Nghiêm, hệ thống hoành phi - câu đối, đồ thờ ... Đặc biệt là kho mộc bản kinh Phật và những thư tịch khác do các vị thiền sư Thiền phái Trúc Lâm tổ chức san khắc ở nhiều giai đoạn khác nhau. Di sản này không chỉ là báu vật của đất nước Việt Nam mà còn là tài sản văn hoá chung của cộng đồng các dân tộc ở khu vực Đông Nam á, Châu á và trên toàn thế giới Tiêu biểu có tư tưởng triết học, nhân văn của người phương Đông suốt từ những năm đầu thế kỷ XIII đến nay. Vì thế, kho mộc bản chùa Vĩnh Nghiêm đã được Ủy ban UNESCO khu vực Châu Á Thái Bình Dương ghi danh vào Danh mục Di sản tư tiệu trong Chương trình Ký ức thế giới ngày 16 tháng 5 năm 2012.

Thác bản mộc bản có bài kệ “Cư trần lạc đạo phú”
Thác bản mộc bản có bài kệ “Cư trần lạc đạo phú”

Với những giá trị nội hàm vốn có, chùa Vĩnh Nghiêm đã được Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định xếp hạng Di tích quốc gia đặc biệt theo Quyết định số 2367/QĐ-TTg ngày 23 tháng 12 năm 2015 .

Trong nhiều năm trở lại đây, nhiều nhà nghiên cứu, các vị thiền sư Việt Nam và một số nước trên thế giới đã tìm về Vĩnh Nghiêm để xem xét, nghiên cứu, phát huy những giá trị của kho mộc bản ở nhiều lĩnh vực khác nhau. Một số vị thiền sư Việt Nam đã về chùa Vĩnh Nghiêm xin toàn bộ bản dập kho mộc bản để nghiên cứu, biên tập thành sách, giáo trình thể hiện giáo lý Phật giáo của thiền phái Trúc Lâm và lấy đó làm sách giảng giải kinh Phật cho các tăng ni, Phật tử. Từ đó khiến cho tư tưởng, giáo lý của Thiền phái Trúc Lâm luôn được các thế hệ người Việt Nam gìn giữ, truyền dạy lại và ngày càng phát triển mở rộng, hoà nhịp với cuộc sống đương đại.

Việc truyền bá dòng tư tưởng của thiền phái Trúc Lâm thông qua hệ thống tài liệu, giáo trình, sách vở, bài giảng của các thiền sư có uy tín trong và ngoài nước. Tất cả những tư tưởng ấy đều được biên soạn thành sách và được biên dịch ra nhiều thứ tiếng trên thế giới để đáp ứng nhu cầu tìm hiểu về đạo Phật của mọi người. Nội dung những cuốn sách này đều dựa trên nền tảng cốt yếu đã có trong kho mộc bản chùa Vĩnh Nghiêm, Bắc Giang. Người có công trong việc truyền tải những thông điệp Phật pháp này ra thế giới không ai khác chính là những vị thiền sư người Việt Nam có uy tín với các Phật tử. Tiêu biểu có Hoà Thượng Thích Thanh Từ, Hoà Thượng Thích Nhất Hạnh và Thiền sư Thích Huyền Diệu. Các thiền sư này vừa truyền bá tư tưởng của thiền phái Trúc Lâm qua việc biên soạn sách và dịch ra tiếng nước ngoài, vừa truyền giảng tinh thần thiền Việt Nam cũng như trực tiếp xây dựng nên các thiền viện để đào tạo tăng ni, phật tử theo kiểu thiền phái Trúc Lâm ở trong nước và trên thế giới. Các ngài đã đem tâm thức thiền Việt Nam có từ thời Tam Tổ Trúc Lâm quảng bá và giao lưu với nhiều hệ tôn giáo khác trên thế giới trong tinh thần dung hợp bác ái. Chính vì vậy, việc truyền bá tư tưởng, giáo lý thiền phái Trúc Lâm không chỉ dừng lại ở phạm vi lãnh thổ Việt Nam mà tiếp tục được truyền bá rộng rãi trên khắp thế giới.

Đánh giá được tầm quan trọng lớn lao của kho mộc bản, năm 2009 Sở Văn hoá-Thể thao và Du lịch Bắc Giang đã tiến hành in dập lấy thác bản của toàn bộ số lượng mộc bản tàng trữ tại chùa Vĩnh Nghiêm. Đồng thời kiểm kê, phân loại đầu sách, lược dịch lấy nội dung của những tác phẩm kinh, sách tiêu biểu trong kho mộc bản, dịch giới thiệu một số tác phẩm có liên quan đến thiền phái Trúc Lâm Yên Tử và chốn tổ Vĩnh Nghiêm. Sau một thời gian làm việc tích cực, đoàn kiểm kê đã đưa ra được số liệu thống kê tổng hợp toàn bộ kho mộc bản tại chùa Vĩnh Nghiêm. Cụ thể, kho mộc bản có số lượng 3050 mộc bản, với 9 đầu sách lớn thuộc hai loại kinh, sách chính: Loại kinh sách có nguồn gốc từ Trung Hoa, Ấn Độ được các Phật tổ thiền phái Trúc Lâm kế truyền, chú dẫn theo tư tưởng Việt Nam và loại kinh sách của các Tổ sư thiền phái Trúc Lâm sáng tác truyền lại, có thể kể tên một số loại kinh, sách chính như sau:

- Về kinh Phật có: Hai bộ kinh Đại phương quảng Phật Hoa nghiêm kinh (cả phần kinh và phần chú giải); A Di Đà kinh. Đây là 2 bộ kinh chủ yếu dùng trong Thiền phái Trúc Lâm Yên Tử.

- Về luật giới Phật có: Đại thừa chỉ quán, Tỳ khâu ni giới, Sa di ni giới kinh. Ba quyển này là giới luật tu và thiền cho các tăng ni của thiền phái Trúc Lâm Yên Tử.

- Về sách có: Thần du Tây phương ký, Tây phương mỹ nhân truyện, Kính tín lục, Yên Tử nhật trình (bài Hạnh Thiền tông chỉ nam truyền tâm quốc ngữ, bài phú Cư trần lạc đạo, bài phú Giáo tử, bài Du Yên Tử sơn nhật trình, bài phú Thiếu thất, bài phú Thiền tịch). Trong đó Thần du Tây phương ký và Tây phương mỹ nhân truyện là sách nói về nguồn gốc của đạo Phật ấn Độ. Tập Nhật trình Yên Tử nói về sự ra đời của Thiền phái Trúc Lâm và phương pháp tu thiền tâm của thiền phái này. Tất cả các tăng ni, phật tử theo dòng Đại thừa ở Việt Nam cũng như hải ngoại đều sử dụng các bộ kinh, luật, sách trên để tu trì hành đạo. Vì vậy, mộc bản chính là di sản văn hoá quý giá của Phật giáo Đại thừa trên toàn thế giới nói chung và thiền phái Trúc Lâm của Việt Nam nói riêng. Từ các tư tưởng và giáo lý đó, các thiền sư đã tiếp thu biên soạn thành sách để phát hành, truyền giảng trong toàn quốc và ở trên thế giới.

Các mộc bản này đều được khắc trên vật liệu là gỗ thị. Loại gỗ này được khai thác chủ yếu trong vườn chùa. Đây là loại gỗ quý với đặc tính mềm, mịn, dai, dễ khắc, ít cong vênh, khó nứt vỡ rất phù hợp với việc khắc ván in. Chữ trên các mộc bản đều được dùng bằng chữ Hán và Nôm. Chữ khắc ngược (âm bản) để khi in ra giấy sẽ trở thành chữ xuôi. Sách được đóng, sử dụng theo truyền thống của người phương Đông (đọc từ trái sang phải, từ trên xuống dưới). Kích thước các mộc bản không đồng đều tuỳ theo từng kinh sách, bản khắc lớn nhất chiều dài hơn 1m, rộng 40-50cm, bản nhỏ nhất chỉ khoảng 15 x 20cm. Do đã qua nhiều lần in dập nên các ván in đều có màu đen bóng, bề mặt phủ một lớp dầu mực in khá dày. Lớp dầu mực thấm vào gỗ có tác dụng chống thấm nước, ẩm mốc, mối mọt rất hiệu quả. Đa phần các mộc bản được khắc trên 2 mặt, kiểu chữ chân phương, sắc nét. Mỗi mặt là hai trang sách. Nhiều trang được khắc đan xen thêm những hình minh hoạ với bố cục chặt chẽ, hài hoà, đường nét tinh tế. Vì vậy, mỗi mộc bản còn được coi như một tác phẩm nghệ thuật điêu khắc gỗ hoàn chỉnh. Mỗi bản in trong kho mộc bản còn xứng đáng là tác phẩm đồ hoạ đẹp.

Theo các nhà nghiên cứu khoa học xã hội, các mộc bản chùa Vĩnh Nghiêm được coi là bộ sưu tập mộc bản kinh sách Phật duy nhất hiện còn được lưu giữ về thiền phái Trúc Lâm - một trong những thiền phái tiêu biểu của Phật giáo Việt Nam. Qua quá trình tiếp xúc, lược đọc lấy nội dung cơ bản của kho mộc bản chùa Vĩnh Nghiêm, những người làm công tác nghiên cứu bảo tồn, bảo tàng Bắc Giang đã nhận định sơ bộ về giá trị nội dung kho mộc bản như sau:

- Kho mộc bản chùa Vĩnh Nghiêm là một bảo vật đặc biệt quý hiếm của quốc gia Việt Nam. Tổng tập “mộc bản kinh, sách Hán Nôm” này chính là những tác phẩm lớn chứa đựng nội dung cốt lõi của tư tưởng nhân văn Việt Nam. Đây cũng là nguồn di sản tư liệu phong phú, đa lĩnh vực giúp các nhà nghiên cứu hiểu được cơ sở phát triển của Thiền học Trúc Lâm Yên Tử, lịch sử Phật giáo Việt Nam, văn hoá giáo dục, văn học, ngôn ngữ học, sinh thái môi trường, tâm linh học, lịch sử nghề khắc in mộc bản, nghệ thuật điêu khắc gỗ cổ truyền, xã hội học, y học, cùng các lĩnh vực khác thuộc về khoa học xã hội của Việt Nam từ giai đoạn đầu thế kỷ XIII đến những năm đầu thế kỷ XX.

- Cái lớn của kho mộc bản chùa Vĩnh Nghiêm không chỉ là số lượng con chữ mà là giá trị nhân văn của đất nước, con người Việt Nam. Nó được chuyển tải qua mặt chữ Hán Nôm theo tư duy lôgic của cộng đồng các dân tộc Việt ngay từ những năm đầu công nguyên cho đến thế kỷ XIII. Từ dòng tư duy logic Việt này, tư tưởng nhân văn được chắt lọc và phát triển thành lời thông qua trí tuệ của các vị Vua, Thiền sư, quan lại, nhân sĩ, trí thức thời Trần rồi được lưu truyền sang thời Lê, Nguyễn và tiếp tục trở thành yếu tố chủ đạo trong đời sống, đạo đức của người Việt.

- Đan xen giữa các mộc bản in kinh Phật là các bản khắc về luật giới, sách thuốc qua đó răn dạy các tăng ni Phật tử, giáo dục người đời sống khoan dung độ lượng, nhân ái vị tha theo giáo lý nhà Phật cùng những phương thuốc quý giá để bảo vệ sức khoẻ cho bản thân và cứu giúp người đời. Ngoài ra các bài phú, kệ, nhật ký trong kho bảo vật này còn là trước tác của vị minh quân, anh hùng dân tộc Trần Nhân Tông và các danh nhân lịch sử văn hoá của đất nước mà người dân nước Việt đời đời tôn vinh. Điều này khẳng định thêm rằng Phật giáo là một tôn giáo có vị trí đặc biệt quan trọng trong đời sống của dân tộc Việt Nam.

- Từ những tư liệu trong kho mộc bản chùa Vĩnh Nghiêm còn giúp các nhà nghiên cứu có thêm nguồn sử liệu quý giá về sự phát triển của ngôn ngữ Việt. Cụ thể là sự phát triển của chữ Nôm trong lịch sử; quá trình phát triển của hệ thống văn tự Việt Nam: Chuyển từ chỗ chủ yếu sử dụng chữ Hán sang coi trọng và chủ động sử dụng chữ Nôm. Từ chỗ chỉ được sử dụng số ít thời kỳ trước đó, chữ Nôm bắt đầu hình thành có hệ thống và phát triển mạnh trong dòng văn học Việt Nam. Điển hình là trong trước tác của các cao tăng Thiền phái Trúc Lâm thường sử dụng văn Nôm khi viết lời thuyết pháp dưới dạng văn vần, thơ hoặc các bài diễn giải tư tưởng Phật học như: “Thiền Tông bản hạnh”, “Yên Tử nhật trình”, phú “Cư trần lạc đạo”, phú “giáo tử”, phú “Thiền tịch” và các thể loại văn Nôm Việt Nam.

- Qua các tác phẩm chữ Nôm ghi chép về phong cảnh thiên nhiên, địa chí và địa chất vùng quanh khu vực Yên Tử - Vĩnh Nghiêm cho biết, Yên Tử là nơi hội tụ nhiều yếu tố “địa linh nhân kiệt” để tạo nên một kinh đô Phật giáo thời Trần. Đồng thời khẳng định thêm mối quan hệ mật thiết không thể tách rời giữa Yên Tử - Vĩnh Nghiêm (Bắc Giang) mỗi khi nghiên cứu về Thiền Phái Trúc Lâm Yên Tử.

Trong bối cảnh toàn cầu hoá, đa văn hoá của nhân loại hiện nay, việc nghiên cứu, bảo tồn và phát huy giá trị của kho mộc bản Vĩnh Nghiêm đóng một vai trò quan trọng. Việc này không chỉ giáo dục ý thức giữ gìn văn hoá truyền thống của dân tộc Việt mà còn giúp cho cộng đồng các dân tộc ở khu vực Đông Nam á, Châu á bảo tồn nét văn hoá phương Đông trong quá trình thế giới cùng hội nhập và phát triển. Đồng thời những tư tưởng nhân văn, bác ái, cư trần lạc đạo của tư tưởng thiền phái Trúc Lâm đã đưa vị thế của Phật giáo Việt Nam ngày càng lên cao trên trường quốc tế.

Phòng Văn hóa và Thông tin huyện Yên Dũng